Hà NộiTrên đường từ sân bay Nội Bài chạy vào trung tâm thủ đô, thi thoảng Thomas Bo Pedersen gặp những đứa trẻ chạy theo xe ôtô của ông và hét lên “Russki, russki” (người Nga).
“Trong hiểu biết của lũ trẻ, cứ da trắng, tóc vàng là người Nga bởi chúng chỉ quen với hình ảnh của những chuyên gia Nga sang giúp Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh”, Thomas Bo Pedersen kể về ấn tượng đầu tiên khi vừa đặt chân đến Việt Nam, năm 1984.
Năm đó, chàng phóng viên 29 tuổi của tờ Land og Folk quyết định rời Copenhagen, Đan Mạch sang thường trú ở Hà Nội để khai thác những câu chuyện thời hậu chiến và di chứng chất da cam trên những đứa trẻ. Ông là một trong những phóng viên phương Tây đầu tiên có mặt ở miền Bắc Việt Nam.
“Ban đầu tôi chỉ định ở một nhiệm kỳ hai, ba năm nhưng tình yêu Việt Nam đã giữ tôi ở lại đất nước này hơn 40 năm”, Thomas nói.
Trong ký ức của ông, Hà Nội bấy giờ nghèo và yên ắng như một làng quê. Sân bay Nội Bài rất nhỏ, chỉ có hai tòa nhà một tầng và một đường băng. Trên đường phố, hầu hết người dân đi bộ hoặc đạp xe, hiếm mới thấy một chiếc ôtô, thường là xe công vụ cũ kỹ. Khi mặt trời lặn, thành phố chìm trong bóng tối vì thiếu điện. Họ buộc phải thắp đèn dầu nhưng thứ nhiên liệu này cũng đắt đỏ nên nhiều gia đình chỉ thắp lờ mờ một ngọn và đi ngủ sớm.
Chiến tranh để lại dấu vết khắp nơi. Nhiều ngôi nhà tường loang lổ, mái ngói rơi rụng. Người dân xếp hàng dài trước cửa hàng mậu dịch với sổ tem phiếu để mua gạo, vải, dầu đốt. Trẻ em đi chân đất hoặc mang dép cao su từ lốp xe cũ, bữa cơm thường chỉ có rau muống luộc, vài lát đậu phụ, thêm chút mắm.

Đường phố Hà Nội năm 1985. Ảnh: Thomas Bo Pedersen
Thu nhập bình quân rất thấp, khoảng 80% dân số sống dưới chuẩn nghèo của Liên Hợp Quốc (1 USD mỗi ngày). Ngay bản thân Thomas cũng rất khó khăn, đặc biệt vào mùa đông ông phải vật lộn để giữ ấm.
“Ngay cả các nhà lãnh đạo cấp cao của đất nước cũng sống rất kham khổ”, Thomas nói. Ông kể kỷ niệm không thể nào quên trong một lần phỏng vấn Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Đang trả lời dở, ông Thạch cáo lỗi, tạm dừng để chạy đi mượn bộ vest ở kho của cơ quan, chuẩn bị dự cuộc họp với Liên Hợp Quốc. Chàng phóng viên Đan Mạch lúc đó nghĩ Bộ trưởng nói đùa. Nhưng nhiều năm sau, ông mới biết đó là sự thật.
Giữa giai đoạn đó, Thomas cho rằng may mắn nhất là được gặp những người có đóng góp quan trọng cho đất nước, thể hiện lòng dũng cảm ẩn dưới sự khiêm tốn của người dân Việt Nam, bao gồm các lãnh đạo thời chiến như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Cơ Thạch, Mai Chí Thọ và bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, người có nhiều đóng góp trong lĩnh vực y tế.
“Nhờ họ, tôi nhận ra sức mạnh tiềm tàng của quốc gia này”, ông nói.
Vài năm sau, Thomas trở lại Việt Nam lần nữa và kịp chứng kiến cảnh cả xã hội chuẩn bị cho Đổi Mới, bước ngoặt chính sách đưa Việt Nam chuyển sang mô hình kinh tế thị trường.
Ông nhận thấy chính phủ đã tạo điều kiện để người dân mở doanh nghiệp nhỏ và nông dân toàn quyền quản lý cánh đồng lúa, trái cây, cà phê. Từ quốc gia phải nhập khẩu gạo, chỉ sau vài năm, Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất nhì thế giới, tương tự ở hồ tiêu, thủy sản và cà phê.
“Bước nhảy vọt trong năng suất của Việt Nam là nhờ năng lực nội tại của quốc gia, không phải do viện trợ nước ngoài”, Thomas nói. Trong đó, sự chăm chỉ của người Việt đóng vai trò quan trọng. Ông nhớ mãi câu nói của một người bạn Việt Nam rằng “Cánh đồng lúa chỉ đẹp khi có con người làm việc trên đó”.
Chỉ trong một thế hệ, Việt Nam chuyển từ một trong những quốc gia nghèo nhất Đông Nam Á thành nước có thu nhập trung bình, tất cả nhờ vào kỳ tích tăng trưởng. Và duyên nợ đã giữ Thomas gắn bó lâu dài với đất nước này.
Năm 2002, ông rời nghề báo, gia nhập ngành ngoại giao Đan Mạch, giữ vị trí trưởng phòng thương mại ở đại sứ quán. Khi hết nhiệm kỳ và chuẩn bị rời Hà Nội sang Kuala Lumpur (Malaysia), ông lại nhận lời làm việc cho một công ty đang chuẩn bị đầu tư tại Việt Nam để được ở lại mảnh đất hình chữ S.

Ông Thomas Bo Pedersen ở cầu Hiền Lương, Quảng Trị, năm 2022. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Giữ ba vai trò trong suốt 40 năm đã cho Thomas những trải nghiệm khác nhau và khiến Việt Nam “ngấm sâu” vào ông.
Trong vai trò nhà báo, Thomas ghi lại những khoảnh khắc kịch tính của đời sống Việt Nam thời hậu chiến. Sang ngoại giao, ông nhận ra sự cởi mở và thẳng thắn của các lãnh đạo Việt Nam trong trao đổi. Khi trở thành giám đốc công ty, Thomas tiếp xúc trực tiếp với đồng nghiệp, chứng kiến đời sống thường nhật và học hỏi nhiều từ những người bình thường.
Đó là lý do ông chọn Thomas sống tại một căn hộ quận Tây Hồ và tiếp tục chụp ảnh, đưa vào kho lưu trữ hơn 50.000 tấm, dù không còn làm phóng viên. Nhờ đó, ông quan sát Hà Nội rõ nét hơn.
Hồi mới đến, ông thường đứng trên tháp quân đội cũ đường Điện Biên Phủ, xây từ thời Pháp, quan sát toàn cảnh thành phố. Hiện, tầm nhìn đó bị che khuất bởi hàng loạt tòa nhà cao tầng mọc lên nhanh chóng, tượng trưng cho sự phát triển hạ tầng.
Tuy nhiên, những giá trị cổ xưa vẫn được giữ như làng nhang hay Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nơi ông đến hàng trăm lần. “Hà Nội hiện nay là thành phố pha trộn giữa lịch sử và hiện đại”, ông nói.
Hàng chục năm qua, người Việt vẫn giữ sự tôn kính với thế hệ đi trước vì những cống hiến của họ. Người bạn thân của Thomas, nghệ sĩ violin Trịnh Minh Hiền, vừa ra mắt album mới Lấp Lánh Vàng Sao, như một lời tri ân dành cho đồng bào và đất nước nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh.
Thomas ấn tượng với năng lượng của người trẻ. Đầu tiên là thế hệ bị ảnh hưởng bởi quá khứ chiến tranh và di chứng chất độc da cam, như họa sĩ Lê Minh Châu.
Tay chân teo nhỏ, Châu phải cầm cọ bằng miệng. Khi anh mơ làm họa sĩ, ai cũng cho là viển vông. Khi Thomas gặp Châu, ông đứng quan sát từng nét cọ, ánh mắt, sự tập trung của cậu bé, bức tranh vẫn sống động. Ông giữ bức Châu vẽ con gái út và ngạc nhiên khi nhiều người mua tranh vì yêu thích, không phải thương hại.
Các nhân viên của ông hầu hết đều trong độ tuổi 20-30. Họ tự tin, năng động, lưu loát tiếng Anh, mạnh dạn trao đổi ý tưởng. Dịp 2/9 năm nay, họ là lực lượng tham gia nhiều nhất vào việc trang hoàng đường phố, chuẩn bị cờ, treo băng rôn và mặc áo đỏ, sao vàng.
Dịp này, Thomas thấy tiếc bởi phải trở về Đan Mạch. Cả gia đình ông đã “trở thành người Việt”. Con gái út của ông, Anna, nói rằng cô cảm giác như trở về nhà mỗi lần lên máy bay sang Hà Nội.
“Tôi chỉ tiếc nuối một điều là mình đang già đi, nếu không tôi sẽ có thêm 40 năm nữa ở Việt Nam”, Thomas nói.
Ngọc Ngân