Những mờ ám trong một mạng lưới cho con nuôi ra nước ngoài cách đây nhiều thập kỷ ở Hàn Quốc khiến nhiều đứa trẻ phải ly tán gia đình và đoàn tụ trong day dứt.
Marianne Ok Nielsen, 52 tuổi, chưa bao giờ muốn có con hay gia đình riêng vì cảm thấy “bản thân không xứng với cuộc sống đó”.
“Tôi bị vứt bỏ như rác. Không ai muốn có tôi… Tôi từng nghĩ mình như vậy”, Nielsen, người phụ nữ lớn lên ở Đan Mạch, nói. “Khi ngay cả mẹ ruột cũng không muốn bạn thì ai sẽ muốn bạn? Liệu bạn có thể được người khác yêu thương không?”.
Mẹ nuôi ở Đan Mạch của Nielsen, người đã qua đời năm ngoái, từng nói với bà rằng mẹ ruột có lẽ “thương con lắm mới phải từ bỏ con” bởi không đủ khả năng nuôi nấng.

Ảnh trái, Marianne Ok Nielsen đoàn tụ với mẹ. Ảnh phải, bà Han Tae-soon gặp lại con gái sau 44 năm xa cách. Ảnh: CNN
Câu chuyện có thể được kể ra nhằm an ủi, nhưng ẩn sau nó lại là một đường dây kinh doanh béo bở “xuất khẩu hàng loạt” trẻ sơ sinh, một số với tên và ngày sinh giả, cho cha mẹ nước ngoài tại ít nhất 11 quốc gia.
Thông tin trên được Ủy ban Sự thật và Hòa giải Hàn Quốc báo cáo trong năm nay. Đây là lần đầu tiên chính phủ Hàn Quốc thừa nhận về quy mô của hoạt động này.
Ủy ban đã phát hiện hơn 141.000 trẻ em Hàn Quốc được gửi ra nước ngoài làm con nuôi từ những năm 1950 đến 1990, chủ yếu đến Mỹ và châu Âu. Giữa xã hội kỳ thị những bà mẹ đơn thân lúc bấy giờ, một số phụ nữ bị gây áp lực phải từ bỏ con mình ngay sau khi sinh. Những người khác chịu đau khổ suốt nhiều năm vì bị cướp mất con.
Bà Han Tae-soon, 73 tuổi, vẫn nhớ tiếng cười của cô con gái 4 tuổi Kyung-ha khi bé chơi đùa với bạn bên ngoài ngôi nhà của họ ở thành phố Cheongju, cách thủ đô Seoul khoảng 110 km về phía nam, vào năm 1975.
“Tôi đang trên đường ra chợ và để Kyung-ha chơi với vài người bạn”, bà Han kể. “Khi tôi quay về, con bé đã biến mất”.
Bà Han, khi đó 22 tuổi, cùng gia đình đã lùng sục khắp các cánh đồng dưa hấu gần nhà, lo sợ cô bé có thể đi lạc hoặc chết đuối.
Năm 1981, bà Han mở một tiệm làm tóc ở Anyang, phía tây nam thủ đô, và treo bức ảnh cũ của Kyung-ha trên gương để khách hàng nhìn thấy.
Bà đến các đài phát thanh, phát tờ rơi và xuất hiện trên một chương trình truyền hình năm 1990. Điều này giúp mang lại nhiều manh mối và cả một cú lừa đau đớn. Một phụ nữ 20 tuổi đến gặp, tự nhận mình là Kyung-ha.
“Tôi hỏi ‘bố con làm nghề gì?’ Cô gái trả lời ‘ông ấy lái taxi’. Và thế là tôi đưa con bé về nhà”, bà nhớ lại.
Tuy nhiên, chồng bà không tin. Ông nói với bà: “Đó không phải Kyung-ha”. Mặc dù vậy, bà Han, trong cơn tuyệt vọng, vẫn chào đón người lạ mặt vào gia đình.
Hai năm sau, bà Han biết sự thật khi cô gái chuẩn bị kết hôn. Cô gái thừa nhận đã nói dối vì từng bị mẹ ruột bỏ rơi và muốn có một gia đình. Cô sau đó thu dọn đồ đạc rời khỏi thị trấn, trong khi bà Han vẫn đau đáu tìm con gái ruột.
Trải qua hàng chục năm, mức độ tàn khốc của chương trình đưa trẻ em Hàn Quốc ra nước ngoài làm con nuôi giờ đây mới lộ rõ. Một số đứa con thất lạc đã được gặp lại cha mẹ nhưng chưa thể đoàn tụ đúng nghĩa, vì gặp vô số khó khăn trong giao tiếp và những khác biệt về văn hóa, lối sống sau hàng chục năm xa cách.
Không bị bỏ rơi
Lớn lên tại thị trấn nhỏ Gedved, Nielsen cho biết bà khao khát trở thành “người Đan Mạch hơn cả người Đan Mạch”. Bà nghĩ nếu cha mẹ đẻ không muốn mình, bà cũng sẽ không muốn dính dáng gì tới họ.
Nielsen đã không đặt câu hỏi về nguồn gốc của bản thân cho đến khi trưởng thành. Lúc đó, con trai 4 tuổi của người đàn ông bà đang hẹn hò đã hỏi Nielsen mẹ ruột bà ở đâu.
Khi bà giải thích rằng mình không thể tìm được mẹ ruột vì không còn hồ sơ lưu trữ, cậu bé nói: “Nếu ai làm thế với con, con sẽ khóc suốt cả ngày mất!”. Chính khoảnh khắc đó, Nielsen nhận ra rằng mình đã kìm nén cảm xúc suốt cả cuộc đời.
Năm 2016, Nielsen xét nghiệm ADN thông qua 325Kamra, tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Mỹ chuyên giúp đỡ những người Hàn Quốc được nhận làm con nuôi đoàn tụ gia đình.
Suốt nhiều năm, cuộc tìm kiếm của Nielsen không có kết quả. Nhưng vào tháng 5 năm ngoái, bà nhận được một tin nhắn: “Đã tìm thấy khả năng trùng khớp”. Anh trai bà ở Hàn Quốc đã đăng ký ADN với cảnh sát, hy vọng sẽ tìm được em gái mất tích.
“Suốt 51 năm, tôi nghĩ mình bị bỏ rơi ngoài đường, mình là trẻ mồ côi. Tôi chưa bao giờ tin rằng mình có gia đình và họ đã tìm kiếm tôi bấy lâu nay”, bà nói.
Giống như Nielsen, bà Han đã xét nghiệm ADN qua 325Kamra và cũng tìm thấy thông tin trùng khớp. Con gái mất tích của bà, Kyung-ha, hiện sống ở Mỹ với cái tên Laurie Bender do cha mẹ nuôi đặt.
Con của Bender đã gửi ADN cho 325Kamra gần một thập kỷ trước. Theo lời bà Han, trong suốt những năm tìm con, bà chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm kiếm bên ngoài Hàn Quốc.

Bà Han Tae-soon (phải) bế con gái Kyung-ha khi bé tròn 100 ngày tuổi. Ảnh: CNN
“Tôi nghĩ con bé có thể được một cặp vợ chồng hiếm muộn ở Hàn Quốc nhận nuôi, hoặc nếu còn sống, con bé đang ở đâu đó trong nước. Ý nghĩ về việc cho con nuôi, đặc biệt là với người nước ngoài, chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi”, bà khẳng định.
Bender vào năm 2019 từng kể với kênh truyền hình MBC của Hàn Quốc rằng vào ngày 9/5/1975, cô đã “đi theo một người phụ nữ lên tàu” đến nhà ga cuối cùng. “Tôi tới đồn cảnh sát ngay tại đó, họ đưa tôi lên một chiếc xe Jeep và chở đến trại mồ côi”, cô cho hay.
Bà Han tin rằng người phụ nữ lạ mặt đã dụ dỗ Kyung-ha đến một ga xe lửa ở Jecheon, cách nhà họ khoảng 64 km, rồi bỏ rơi cô bé. “Ngay cả bây giờ, tôi cũng không biết người phụ nữ đó là ai”, bà nói.
Bà cho biết cảnh sát đã đưa Kyung-ha đến Trại Trẻ sơ sinh Jecheon, lúc đó do Jane White, một nhà truyền giáo Mỹ, điều hành. Hồ sơ cho thấy vào tháng 2/1976, 9 tháng sau khi mất tích, đứa trẻ được đưa đến Mỹ.
Tài liệu do Bộ Ngoại giao Hàn Quốc cấp cho phép cô bé ra nước ngoài để làm thủ tục nhận con nuôi đã thay họ Kyung-ha bằng họ của White và thay địa chỉ là Holt Children’s Services.
Trại Trẻ sơ sinh Jecheon cho biết bà White, hiện 89 tuổi, không thể di chuyển hoặc giao tiếp sau khi mắc một “căn bệnh đột ngột” vào tháng 4/2020, nên từ chối bình luận về thông tin do “không ai khác có thể xác nhận các chi tiết”.
Holt Children’s Services là cơ sở tại Hàn Quốc của Holt International, tổ chức được vợ chồng người Mỹ Harry và Bertha Holt thành lập vào những năm 1950. Là những tín đồ Thiên Chúa giáo, họ đã nhận nuôi 8 trẻ em Hàn Quốc sau Chiến tranh Triều Tiên và bắt đầu nhân rộng kinh nghiệm này cho các gia đình khác.
Lúc bấy giờ, Hàn Quốc đang phục hồi sau chiến tranh. Hồ sơ cho thấy số vụ nhận con nuôi quốc tế tăng đáng kể khi các nhà cầm quyền thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những năm 1970 và 1980.
Năm 1977, Holt International tách khỏi Holt Children’s Services. Tháng 10 năm ngoái, Holt International cho biết họ là một trong nhiều tổ chức tư nhân tạo điều kiện cho “các vụ nhận con nuôi từ Hàn Quốc trong những năm 1980”.
Tuyên bố từ Holt International cho rằng “những báo cáo về hành vi nhận con nuôi phi đạo đức hoặc bất hợp pháp” là “đáng báo động”, nhưng lưu ý nhiều thông tin đã bỏ qua việc áp lực xã hội buộc các bà mẹ đơn thân phải từ bỏ con.
“Chúng tôi vẫn cam kết hỗ trợ những người được nhận làm con nuôi từ Hàn Quốc và cha mẹ nuôi của họ giải đáp các thắc mắc”, tổ chức này cho hay.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải phát hiện ra rằng Đạo luật Nhận con nuôi Đặc biệt cho Trẻ mồ côi của Hàn Quốc ban hành năm 1961 đã thúc đẩy nhanh quá trình nhận con nuôi quốc tế sau Chiến tranh Triều Tiên. Không lâu sau, đạo luật còn bao gồm cả trẻ sơ sinh của các bà mẹ đơn thân, trẻ bị bỏ rơi và trẻ em được coi là cần được “bảo vệ”.
Báo cáo của Ủy ban cho biết mọi quy trình liên quan đến việc nhận con nuôi đều được giao phó cho các cơ quan tư nhân. Những đơn vị này đã làm mất, làm giả hoặc ngụy tạo danh tính, thông tin gia đình của nhiều đứa trẻ.
Theo báo cáo, nhiều trẻ em đã phải chịu đựng những chuyến bay dài mà không được chăm sóc chu đáo. Báo cáo có chứa bức ảnh đen trắng chụp những đứa trẻ sơ sinh được thắt chặt vào ghế máy bay trên một chuyến bay từ Hàn Quốc đến Đan Mạch vào năm 1984.
Yooree Kim, hiện 52 tuổi, nhớ lại mình từng ở trên một chuyến bay tương tự đến Pháp. Bà đã cố gắng an ủi những em bé đang khóc bên cạnh bằng cách vuốt ve mặt và để tóc chạm vào da chúng.
Kim, khi đó 11 tuổi, lớn hơn rất nhiều so với những đứa trẻ xung quanh. Bà và em trai từng có một tuổi thơ hạnh phúc ở Hàn Quốc, nhưng sau khi cha mẹ ly hôn, họ chuyển đến sống với ông bà.

Những em bé Hàn Quốc được thắt chặt vào ghế máy bay trong chuyến đi đến Đan Mạch vào năm 1984. Ảnh: Ủy ban Sự thật và Hòa giải Hàn Quốc
Khi bà của họ bị chẩn đoán mắc bệnh lao, hai đứa trẻ trở về với mẹ. Nhưng vì khó khăn tài chính, người mẹ đã gửi hai đứa trẻ vào một cơ sở chăm sóc trẻ em tư nhân vào tháng 5/1983.
Việc làm này chỉ mang tính chất tạm thời, nhưng Giáng sinh năm đó, Kim và em trai bị gửi sang Pháp.
Kim cho biết bà được bảo rằng cha mẹ đã “bỏ rơi” họ. Bà cũng nói mình bị cha nuôi ở Pháp lạm dụng, song ông phủ nhận cho đến khi qua đời vào năm 2022.
10 năm sau khi được nhận nuôi, Kim trở lại Seoul vào năm 1994 và phát hiện ra sự thật.
“Lần đầu tiên tôi gặp lại mẹ, bà đã khóc và nói bà không liên quan gì đến việc tôi bị đưa ra nước ngoài làm con nuôi. Bố tôi quỳ xuống xin lỗi. Ông cũng nói không biết gì về chuyện đó”, Kim kể.
Mẹ Kim nói rằng bà từng làm việc tại một trại trẻ mồ côi và tin tưởng cơ sở này sẽ chăm sóc con mình. Nhưng khi bà quay lại đón các con, chúng đã biến mất.
Đối với Kim, tìm lại gia đình là chưa đủ. Bà muốn tất cả những người liên quan phải công khai mọi thứ trong cái mà bà gọi là một quy trình đầy sai sót và gây tổn thương sâu sắc.
Ủy ban Sự thật và Hòa giải đã đề xuất chính phủ Hàn Quốc và các cơ quan môi giới nhận con nuôi tư nhân xin lỗi về việc vi phạm quyền trẻ em.
Quá trình nhận con nuôi ở Hàn Quốc hiện được giám sát chặt chẽ hơn. Theo một đạo luật thông qua vào năm 2023, các cơ quan tư nhân phải chuyển tất cả hồ sơ nhận con nuôi quốc tế còn lại cho Trung tâm Quốc gia về Quyền trẻ em trước cuối tháng này.
Từ tháng 10/2025, Hàn Quốc sẽ phải tuân thủ Công ước Hague về nhận con nuôi quốc tế. Công ước đặt ra các tiêu chuẩn để bảo vệ trẻ em khỏi nạn bắt cóc, buôn người hoặc mua bán người trái phép.
Nhưng các gia đình bị chia cắt nói rằng chỉ như vậy không thể giúp họ thôi day dứt.
“Tôi muốn nhận được lời xin lỗi và bồi thường”, Kim quả quyết.
Đoàn tụ
Sau nhiều cuộc điện thoại với bà Han, Bender bay đến Seoul vào năm 2019. Hai người đoàn tụ tại sân bay. Bà Han vẫn luôn giữ hình ảnh cô con gái là một đứa bé 4 tuổi bám váy mẹ. Nhưng giờ đây, bà phải đối mặt với con gái đã thay đổi hoàn toàn sau 44 năm xa cách.
“Điều đầu tiên tôi hỏi con bé là ‘tại sao con lại sang Mỹ?’. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng con có thể ở đó”, bà kể.
Lấy bàn tay vuốt lên mái tóc Bender, bà Han chắc chắn đây là con gái mình bởi “kết cấu tóc không thể thay đổi”. Bender vẫn giữ đôi giày mình mang vào ngày mất tích và chính nó giúp xác nhận thêm rằng Bender chính là Kyung-ha.
“Con bé đã giữ đôi giày suốt bấy lâu nay”, bà Han nói. “Bạn có thể tưởng tượng con bé đã mong tìm được bố mẹ đến mức nào không?”.
Bà Han cho biết bản thân rất tức giận vì quãng thời gian đã mất và rào cản ngôn ngữ đang tồn tại giữa bà với con gái.
“Nếu ngày đó không bị chia cắt, giờ đây tôi có thể nói với con tất cả những gì tôi muốn”, bà cho hay. “Nhưng hiện tại, ngay cả khi tôi cố gắng nói chuyện với con, vẫn có quá nhiều hiểu lầm. Sau khi đoàn tụ, chúng tôi vẫn thấy như người xa lạ vì không thể thực sự giao tiếp”.
Bà Han vẫn sống ở Anyang. Căn hộ ba phòng ngủ sạch sẽ của bà, nằm trong một khu chung cư yên tĩnh, chứa đầy những bức ảnh em trai và em gái Bender. Ảnh của Bender cũng có ở đó, nhưng có một khoảng trống giữa ảnh cô lúc còn bé và khi đã trưởng thành.
Tháng 10 năm ngoái, bà Han là một trong những người mẹ đầu tiên ở Hàn Quốc kiện chính phủ, trại trẻ mồ côi và Holt Children’s Services, cơ quan dàn xếp nhận con nuôi lớn nhất đất nước, vì những thiệt hại bà phải chịu. Vụ án của bà dự kiến được đưa ra xét xử trở lại vào tháng 9 năm nay.
Nielsen cũng gặp khó khăn trong việc giao tiếp với người mẹ mà cô từng tin là đã bỏ rơi mình. Mẹ bà giờ đã 93 tuổi và mắc chứng mất trí nhớ nên không còn ký ức nào về đứa con gái thất lạc.
Theo thời gian, Nielsen đã dần có thêm thông tin về những gì xảy ra trong quá khứ.
Tháng 8/1973, mẹ bà mắc một căn bệnh truyền nhiễm. Lo cho an toàn của đứa con mới sinh, bà tạm thời gửi con cho dịch vụ xã hội. Tháng 12/1973, đứa trẻ được gửi đến Đan Mạch. Vài tuần sau, người mẹ hoảng loạn trình báo cảnh sát.
Giống Bender, tên và ngày sinh của Nielsen đã bị thay đổi trên giấy chứng nhận xuất cảnh do chính phủ cấp. Tài liệu này ghi nơi liên hệ của đứa trẻ là địa chỉ của Holt Children’s Services.

Nielsen hiện đang sống tại Daejeon, Hàn Quốc, để ở gần gia đình ruột thịt của mình. Ảnh: CNN
Nielsen đã quay về Daejeon để ở gần mẹ hơn và để mẹ biết rằng bà không giận dữ hay đổ lỗi cho quá khứ. Nhưng Nielsen cảm thấy thất vọng vì rào cản ngôn ngữ giữa họ, khiến hai người không thể hiểu nhau.
“Ngôn ngữ là cánh cửa dẫn vào văn hóa. Tình cảm thân mật khi trò chuyện với mẹ đã hoàn toàn biến mất. Đó là một mất mát rất lớn đối với tôi”, bà nói.
Nielsen đang học tiếng Hàn. Nhờ vậy, bà có thể tìm được vài lời an ủi dành cho người mẹ già yếu của mình. Nhưng đôi khi, lời nói không thực sự cần thiết.
Nielsen vẫn nhớ đêm đầu tiên bà ngủ bên cạnh mẹ ruột.
“Tôi không thể ngủ nhiều. Tôi chỉ nhìn mẹ… Tôi có thể nhìn bà và cảm nhận rằng ‘đây là mẹ mình. Không còn nghi ngờ gì nữa'”, bà nói.
Vũ Hoàng (Theo CNN, AFP, Reuters)