‘Mãi mãi tuổi hai mươi’ – nhật ký vượt thời gian


Nhật ký ghi lại tinh thần chiến đấu, những nỗi niềm riêng của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc được công chúng đón đọc suốt 20 năm qua.

Gần đây, sức hút của phim Mưa đỏ và tiểu thuyết cùng tên thôi thúc nhiều người đọc lại những cuốn sách về đề tài chiến tranh, trong số đó có Mãi mãi tuổi hai mươi. Tác phẩm do nhà văn Đặng Vương Hưng sưu tầm và giới thiệu, gồm những trang nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc từ tháng 10/1971 đến tháng 5/1972.

Sách được xuất bản lần đầu năm 2005, trở thành sự kiện văn hóa – xã hội tiêu biểu của năm đó, nhận giải đặc biệt của Giải thưởng Sách Việt Nam lần thứ nhất. Sau khi ấn phẩm và Nhật ký Đặng Thùy Trâm ra mắt tạo tiếng vang lớn, quỹ Mãi mãi tuổi 20 được thành lập và hoạt động đến nay, nhằm tri ân những anh hùng liệt sĩ đồng thời khơi dậy tình yêu nước cho thế hệ trẻ.

Đầu tháng 9, Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản tác phẩm, có chỉnh lý, bổ sung hình ảnh, thư tay và tư liệu từ gia đình liệt sĩ. Nhà xuất bản đã bán 5.000 cuốn bìa mềm, hiện in thêm 3.000 bản, Fahasa độc quyền phát hành 3.000 bản bìa cứng. Dưới bình luận ở một số video livestream giới thiệu sách trên TikTok, nhiều người hỏi mua ấn phẩm để hiểu hơn tâm tư của thế hệ người lính trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ.





Bìa cuốn Mãi mãi tuổi hai mươi do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành. Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã thực hiện kịch bản phim Mùi cỏ cháy, dựa trên nội dung nhật ký. Ảnh: Nhà xuất bản cung cấp

Sách là một trong những ấn phẩm khởi đầu cho tủ sách ”Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nhà xuất bản Kim Đồng. Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã thực hiện kịch bản phim “Mùi cỏ cháy” dựa trên nội dung nhật ký. Ảnh: Nhà xuất bản cung cấp

Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội, trong một gia đình thợ thủ công. Khi Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, cha mẹ ông phải bán hết nhà cửa, xưởng máy để sơ tán về quê. Hợp tác xã không có việc làm, nhà đông con, tài sản của gia đình sớm khánh kiệt. Ngày đó, Nguyễn Văn Thạc vừa đi học, vừa làm thêm phụ giúp bố mẹ. Hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn đạt loại học sinh A1 (giỏi toàn diện) suốt 10 năm phổ thông.

Năm lớp 10, ông giành giải nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc. Nhờ thành tích học tốt, ông được Ban Tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện đi đào tạo tại Liên Xô. Tuy nhiên theo chủ trương chung, phần lớn học sinh nam xuất sắc năm đó đều phải ở lại để tham gia quân đội. Trong lúc chờ gọi nhập ngũ, ông thi và đỗ khoa Toán – Cơ, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đó cũng là thời gian kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt, nhiều sinh viên phải ngưng việc học để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội. Nguyễn Văn Thạc nhập ngũ ngày 6/9/1971.

Lên đường ra trận, Nguyễn Văn Thạc có nhiều trải nghiệm khác xa những gì ông tìm hiểu. Qua sách, người đọc phần nào cảm nhận sự gian nan, khổ cực thời chiến. Nhật ký ngày 3/10/1971 ghi: ”Rừng chẳng nên thơ như ta tưởng tượng. Cây cao, sù sì nom rờn rợn. Vực sâu, dây leo chằng chịt, chứa đựng biết bao điều bí ẩn. Cuộc sống của ta sẽ kéo dài ở đó”. Khi hành quân, ông miêu tả: ”Con đường rừng đầu tiên ta đi, vai nặng ba lô, mồ hôi ướt đẫm ngực, vai và sau lưng áo. Con đường dài và mất hút… Quay lại phía sau, cũng con đường… Con đường xa lạ và gập ghềnh… Khiếp, ba lô chứa gì mà nặng thế, oằn cả lưng anh bộ đội. Mảnh đồi ơi, ta chưa từng quen biết, nhưng hôm nay mồ hôi ta đã nhỏ xuống đất này”.

Dù vất vả, Nguyễn Văn Thạc luôn ý thức sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc, coi việc trở thành người lính là niềm tự hào. Đây cũng là tinh thần xuyên suốt nhật ký của ông. Trong đó ngày 31/12/1971, ông khẳng định: ”Con đường mình chọn, con đường mình đi là hoàn toàn đúng đắn. Không còn phải đắn đo gì nữa, Thạc cứ đi theo con đường này thôi, con đường không đòi hỏi đền bù lại điều gì và trọn đời cống hiến cho đất nước. Mình không muốn dành cuộc sống của mình cho một sở thích cá nhân. Mình muốn làm theo yêu cầu của Tổ quốc”.

Bên cạnh suy nghĩ cho bản thân, ông kể lại những sự việc, con người ông gặp nơi đóng quân, người lính cùng đơn vị hay các cán bộ chỉ huy tiểu đội, trung đội, trung đoàn. Khi chia tay Đại đội trưởng ngày 20/11/1971, ông viết: ”Đại đội trưởng cũng đi rồi. Quân đội đúng là một đại gia đình, và đi đâu cũng người nhà cả mà thôi. Chẳng cần tiễn đưa gì cả. Cắt cho Đại đội trưởng cái đầu mới toe. Kỷ niệm, thế là đủ rồi”.

Ngày 10/4/1972, dừng ở ga Quán Hành, Nghệ An và ngồi trong một nhà dân, ông ghi: ”Điều bất ngờ nhất là gia đình mình ở có người con trai là thầy giáo của mình. Thầy Khang dạy Toán 2. Còn em nhỏ trong nhà lại là học sinh giỏi của miền Bắc. Mình chợt nhớ: đã đến đất Nghệ An, quê hương của Bác Hồ, của cà dằn mặn muối, của cụ đồ già. Đất này là đất học”.





Trang thứ hai của cuốn nhật ký - khi ấy được liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đặt tên là Chuyện đời. Ảnh: Sách Mãi mãi tuổi hai mươi

Trang thứ hai của cuốn nhật ký – khi ấy được liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đặt tên là ”Chuyện đời”. Ảnh: Sách ”Mãi mãi tuổi hai mươi”

Trong nhật ký, Nguyễn Văn Thạc hay nhắc đến những cái tên viết tắt như P, N.A, A hoặc N.Anh, tất cả đều chỉ chung Phạm Thị Như Anh – người bạn gái, tri kỷ của ông. Khi ông vào bộ đội, bà cũng đi du học tại Liên Xô. Qua nhiều trang viết, ông thường nhắc đến bà như cái cớ để bộc bạch mọi niềm vui, nỗi buồn, gửi niềm nhớ thương từ chiến trường. Ở lời tựa, nhà văn Đặng Vương Hưng nói: ”Chỉ riêng một người bạn gái, trong bốn tháng anh viết cho cô tới 500 trang thư, có thư dày tới 54 trang”. Được Tiến sĩ Phạm Thị Như Anh cho phép, nhà xuất bản đã ghi rõ những chữ viết tắt thành Như Anh để thuận tiện cho bạn đọc tiếp cận sách.

Ngày 4/10/1971, gần một tháng nhập ngũ, nghe được những câu hát về một cuộc hẹn hò dang dở, Nguyễn Văn Thạc trải lòng: ”Chao ôi, là nhớ… Mình tưởng tượng thấy bóng dáng yêu dấu đang nép sau thân bạch đàn ứ nhựa. Đừng giận gì nữa hết, xa nhau lâu rồi, còn có điều gì để giận… Hay P. giận vì lá thư cuối tháng 6 không được trả lời? Không viết nổi P. ạ, không sao viết nổi, vì nỗi thương cảm sâu xa bóp nghẹt trái tim T.”, ”Ta khao khát một sớm mùa hạ, cùng nắm tay P. trong phòng đọc sách… Mùi sách quyến rũ hay gì mà làm ta xao xuyến thế”.

Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong lòng người lính Nguyễn Văn Thạc, trỗi dậy lúc ông mệt mỏi nhất. Vào rừng lấy nứa ngày 21/3/1972, ông bộc bạch: ”Xếp nứa theo hình chữ A mà vác là tốt nhất, cho đầu nặng hơn, chúc xuống dưới, tránh được dây rợ lằng nhằng và nếu có ngã thì chống được ngay. Mình nhìn những chữ A lừ đừ trôi trong rừng, vừa thú vị, vừa vui, vừa khổ và nhất là rất nhớ Như Anh. Lúc ấy chắc Như Anh không hiểu điều gì đang sống với mình đây. Nhớ Như Anh hơn cả gia đình! Không thể giấu được điều ấy”.





Chân dung liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, hy sinh ngày 30/7/1972 tại mặt trận Quảng Trị, hiện yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội. Ảnh: Sách Mãi mãi tuổi hai mươi

Chân dung liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, hy sinh ngày 30/7/1972 tại mặt trận Quảng Trị, hiện yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội. Ảnh: Sách ”Mãi mãi tuổi hai mươi”

Là người giỏi văn, ông thổi hồn cho những dòng tự sự của mình bằng ngôn từ bay bổng, giàu sức gợi. Ở một đoạn nhật ký, cái khốc liệt của chiến tranh khiến ông suy ngẫm: ”Cuộc sống thật tuyệt vời biết bao, trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu muộn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời. Bao giờ để niềm vui về cùng hạnh phúc, để những đôi bạn bình yên dạo trong rừng bạch đàn, có ánh nắng xanh dịu và những đàn chim câu trắng muốt điểm sáng của rừng?”.

* Những dòng nhật ký cuối cùng của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc

Theo nhà văn Đặng Vương Hưng, có thể coi nhật ký Nguyễn Văn Thạc là một cuộc trải nghiệm thực tiễn gian khổ, nhiều hy sinh nhưng đầy mê say và hấp dẫn của một thanh niên trí thức Hà Nội trong những năm đầu thập niên 1970. Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhắn gửi các học sinh, sinh viên, thanh niên và nhân dân tìm đọc cùng cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm để trau dồi thêm lý tưởng, tình cảm cách mạng, phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phương Linh







Nguồn : VnExpress

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang